Thư pháp là gì?
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ...
(Ông Đồ-Vũ Đình Liên).
Ông đồ trong bài thơ
trên đây bày mực tàu giấy đỏ để hành nghề viết mướn, bán chữ cho khách qua
đường. Nghề của Ông không cần đến những văn chương chữ nghĩa cao siêu. Bất quá
là những chữ phổ cập trong đại chúng như:"Phúc, Lộc, Thọ, Kim Ngọc Mãn Đường
v.v.... Tuy nhiên những chữ này phải được viết thực đẹp để có thể mang về nhà
dán lên vách, lên cột như những bức tranh. Yêu cầu về nghề nghiệp của Ông đồ
này là phải có hoa tay:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Như phượng múa rồng bay
Muốn viết được thứ chữ
như phượng múa rồng bay đó, người viết cần phải có một Thư Pháp.
THƯ PHÁP
(Calligraphy-callégraphie) là cách viết chữ đẹp-một trong những bộ môn nghệ
thuật rất trí tuệ và tao nhã.
Cách đây hơn 35000 năm,
người tiền sử đã để lại nhiều bức vẽ đầu tiên trong các hang động. Nhưng nếu
chỉ biết vẽ thì chưa đủ trí tuệ để đưa con người thoát ra khỏi thời kỳ ăn lông
ở lỗ. Chỉ đến khi chữ viết xuất hiện mới chứng tỏ con người đã có một bước
ngoặt để tiến vào những nền văn hóa, văn minh.
Chữ viết nảy sinh từ nhu
cầu làm sổ sách, kế toán, những văn tự xưa nhất dưới dạng ký hiệu xuất hiện ở
vùng đồng bằng Mesopotamia vùng Trung Cận Đông vào khoảng 4000 năm trước tây
lịch. Chữ Hán của người Trung Hoa xuất hiện chậm hơn vào khoảng 2000 năm trước
tây lịch. Huyền thoại về chữ viết của người Trung Hoa cho rằng người xưa đã
quan sát dấu chân chim, chân thú để lại trên tuyết hay trên cát mà sáng tác ra
dạng chữ Hán. Trong số những dấu tích xưa nhất của chữ Hán, có thứ chữ khắc
trên mai con rùa gọi là giáp cốt văn mang nội dung của Kinh Dịch được xác định
niên đại vào khoảng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XI trước tây lịch. Nghe nói sau
này, ở Trung Quốc có học giả Quách Mạt Nhược là người có thể đọc và hiểu được
thứ giáp cốt văn ấy.
Chữ viết của người Nhật
có từ thế kỷ thứ V trước tây lịch, có nguồn gốc từ chữ Hán, do người Trung Hoa
đưa vào qua Kinh Phật. Trong một thời gian dài đến thế kỷ XIII, người Nhật đã
phải sử dụng chữ Hán. Mãi đến đầu thế kỷ thứ IX, một số các mệnh phụ phu nhân
trong triều đình sáng tác ra một kiểu chữ riêng gọi là Hiragana, mượn từ chữ
Hán nhưng đơn giản hóa đi nhiều và tạo ra hình kiểu Nhật Tương tự như thế,
Hàn Thuyên và các nhà ngữ học tiên phong của nước ta đã sáng tác ra chữ Nôm.
Ở phương Tây,
chữ Anh, chữ Pháp bắt nguồn từ các cổ tự Ả Rập, Hy Lạp, La Mã. Tại thư
viện Charles Quint, còn lưu trữ những văn bản viết theo kiểu tràng giang đại
hải, câu chữ viết liên tục, không có khoảng cách giữa các từ hoặc các chương.
Mãi đến năm 1637, nghề in đã phát triển ở châu Âu mới thấy xuất hiện lần đầu
một quyển sách “ thông minh” được trình bày theo quy cách hiện đại. Đó là quyển
Phương Pháp Luận ( Discours de la Méthode) của René Descartes viết bằng tiếng
Pháp.
Như thế, chữ viết là một
quá trình phát triển phức tạp và lâu dài, xem ra nhân loại đã tốn không biết bao
nhiêu trí tuệ và tâm huyết.
Song song với việc sáng
tạo ra con chữ, người ta còn phải sáng tạo ra cách viết chữ.
Lúc đầu và đơn giản nhất
là dùng ngón tay viết trên cát hay trên mặt đất. Muốn giữ lâu hơn thì viết lên
những tảng đất sét, tảng đá, trên gỗ. Người Trung Hoa thời xưa chép sử trên
những mảnh tre. Người Bà La Môn chép kinh bằng cách dùng bút lửa viết lên phiến
lá bối, da dê. Khi đã phát minh ra giấy thì dùng bút lông, bút cây, bút tre,
bút sắt, bút bi.
Và bây giờ, trên máy vi
tính chữ viết không đươc tạo hình bằng bút mà bằng “bit”.
Bất cứ thứ chữ viết và
cách viết nào lúc đầu cũng phải xuất hiện dưới dạng chân phương. Khi mọi người
đã quen tay, quen mắt người viết mới chú ý đến cách trình bày đẹp hơn. Cách
viết chữ đẹp dần dần được nâng lên hàng nghệ thuật, tức là thư pháp. Trong thư
pháp, người viết gửi gắm “Cái tôi” của mình vào đó rất nhiều. Cái gửi
gắm vào đó không chỉ có hoa tay mà còn có cái thần (spirit). Do đó, người không
có bản sắc tâm hồn và cá tính mạnh mẽ thì không thể có một thư pháp. Trung Quốc
là một nước có nhiều nhà thư pháp lớn. Trong số đó nổi tiếng nhất là Vương Hy
Chi đời Tần. Sách Tần thư chép: năm Vĩnh Hòa thứ 9 ngày mồng ba tháng ba họ
Vương cùng 41 danh sĩ đương thời họp mặt ở Lan Đình huyện Cối Kê tỉnh Triết Giang
nhân dịp này Vương Hy Chi tự tay viết bài Tự Tập Thành 28 hàng 324 chữ đẹp đến
nỗi mọi người đều mê mẩn.
Sau Vương Hy Chi đến
Vương Duy đời Đường, tài tử đại gia Tề Hoàng Mế Sái đời Tống.
Sau này, tiểu thuyết gia
Kim Dung giàu tưởng tượng còn đem cả kiếm thuật, võ thuật vào thư pháp, thêu
dệt nên lắm chuyện ly kỳ trong Hiệp Khách Hành hoặc Cô Gái Đồ Long.
Võ lâm chí tôn, bảo đao
Đồ Long
Hiệu lệnh thiên hạ…
Gạt bỏ những điều bịa
đặt hoang đường, cái có thực trong các câu chuyện trên là một nghệ thuật
thư pháp đã đạt đỉnh cao của người Trung Hoa.
Người Việt Nam có Cao Bá
Quát là một nhà thư pháp thuộc hàng đệ nhất danh gia. Bạn đọc Áo Trắng đã có
dịp nhìn thấy bút tích Cao Bá Quát được giới thiệu trong quán sách nói của ông
đồ số xuân Bính Tý vừa qua.
Còn hiện nay thì có giai
thoại về thư pháp của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Hồi đó, nhà thơ Hoàng Cầm mở
quán bán rượu nếp làng Vân ở Hà Nội, Hoàng Trung Thông vốn sính rượu vào đấy
uống say mèm trong cơn đại tuý, Hoàng Trung Thông đứng dậy viết lên vách tường
của quán rượu một chữ TỬU tuyệt đẹp. Tiếc rằng thư pháp của ông ngoài một chữ
TỬU ấy không biết còn để lại những gì nữa chăng?
Chữ quốc ngữ mà chúng ta
đang dùng tuy là thứ văn tự non trẻ và mang ký tự La Tinh nhưng càng ngày càng
có nhiều người viết nâng lên ngang hàng thư pháp.Chèo Vỡ Sông Trăng của
Minh Đức Triều Tâm Ảnh là một dạng thư pháp chữ quốc ngữ mang nét chữ Latinh và
cái thần của thư pháp Trung Hoa. Lối chữ của Trịnh Công Sơn dùng để chép lời
trong các bản nhạc của anh cũng là dạng thư pháp được nhiều bạn trẻ ưa thích
bắt chước viết theo khá giống.
Có người cho rằng thư
pháp là bộ môn nghệ thuật cao minh hơn hội họa một cái đầu. Điều đó thì chưa
thể khẳng định. Có điều ngày nay tranh là một mặt hàng đại trà trên thị trường
còn thư pháp, thư họa thì khó kiếm hơn nhiều. Người biết viết đã hiếm và người
biết thưởng thức cũng hiếm.
What is
calligraphy?
Every year, at the peach blossoms’ bloom
An old-times scholar was seen
With his Chinese ink and red papers…
(
Old-times scholars – Vu Dinh Lien)
The above old-times scholar
displayed his Chinese ink and red papers to earn his living by writing Chinese
characters per bypassers’ requests. His profession did not need
sublimely-meaning words and literature. At most, the words were popular
ones like: Happiness, Prosperity, Longevity, Mansion full of gold and gems,
etc… However, these words must be written with a high state-of-the-art style so
that they could be brought home and hung on the walls or columns as paintings.
The exquisite requirement for these old-times scholars was that they had to
master dexterity:
His dexterity drew strokes
Looking like a dancing phoenix and a
soaring dragon…
In order to create such
dancing-phoenix and soaring-dragon like strokes, the writer must have a Calligraphy.
CALLIGRAPHY is the way of creating
artistic and impressive strokes – one of the highly spiritual and refined arts.
Thirty-five thousand years ago,
pre-historical people carved their very first pictures in grottoes and
caves. Nevertheless, knowing how to draw was not enough to help human beings
surpass their primitive stage of living. Only when written words came
into existence could men reach their turning point to enter some real cultural
civilization.
Written words were created due to
the need of keeping accounting books. The most ancient written words in the
form of signs appeared in the Mesopotamia delta of the Near Middle East about
4,000 years before Christ. China’s characters took a longer time to come into
being – about 2,000 years before Christ. A Chinese legend has it that the
ancient Chinese observed birds’ and animals’ footprints on snow or sand fields
to create Chinese characters. Among the most ancient traces of Chinese
characters was a form of characters
carved on tortoises’ backs named Tortoise Shell’s Characters conveying
the content of Kinh Dich dating from about the 16thcentury till the
11th century before Christ. It was said that later in China
scholar Quach Mat Nhuoc was the one who could read and understand those Tortoise
Shell’s Characters.
The Japanese people gave birth to
their written words in the 5th century before Christ, which
originated from the Chinese characters and first introduced in Japan by the
Chinese via Buddha’s teaching books. Over a long period of 13 centuries, the
Japanese had to use Chinese characters. Until the beginning of the 9th century,
a number of the Royal Court’s ladies created a particular style of Japan’s
written words named Hiragana, which was generated from Chinese characters but
much more simplified and formed with Japanese style. Similarly, Vietnam’s Han
Thuyen and pioneer linguists created Chinese-transcribed Vietnamese.
In Western countries, English and
French written words originated from Arabian, Greek and Roman ancient
characters. At Charles Quint library, there still are archives of sheets
written in texts with non-stop running sentences without any space between words
or chapters. It wasn’t until 1637, after the printing profession had been
developed that there appeared for the first time in Europe an “ intelligent”
book designed and presented in the modern style. That was “Discours de la
Méthode” by René Descartes, written in French.
Thus, written words have gone
through a process of prolonged and complicated development, which has consumed
a lot of human beings’ mental devotion and heartfelt dedication.
Concurrently with the creation of
written words was the creation of how to form the characters of such written
words.
At the very beginning and in the
simplest style, people used their fingers to write on the sand’s surface or the
earth’s surface. In order to preserve the written words, people wrote on clay
cakes, rocks or wooden boards. The ancient Chinese wrote their history on
bamboo slices. The Brahmins wrote their prayers with burning flame pens on la
boi slabs, goat skin patches…When paper was invented, people used brushes, reed
pens, bamboo pens, iron pens, ball point pens….to write.
And now, on the computers written
words are not formed by pens but by “bits”.
Any form of characters or character
forming style was to appear in plain forms at the very beginning. It took
people being familiar with words presented in writing or viewing before the
writers began to think of more eye-catching style of writing. How to
create attractive written words was gradually upgraded to the level of fine
arts – that is calligraphy. In Calligraphy, the written words are deeply imbued
with the writer’s “Ego”. In order to have such an infiltration of
“Ego”, the writer does not only possess a dexterity, but
also a spirit. Therefore, without a spiritual character and a strong
personality, one cannot master a calligraphy. China is considered a country
with many great calligraphers. Among the distinguished ones, Vuong Hy Chi of
the Tan dynasty was the most famous calligrapher. The Tan book wrote: in the 9th Vinh
Hoa year, on the lunar 3th March, the Vuong and 41 other then
scholars got together at Lan Dinh, Coi Ke district in Chiet Giang
province. On this occasion, Vuong Hy Chi handwrote a text comprising of 28
rows, 324 characters, which looked so beautiful that people were deeply
charmed.
Succeeding Vuong Hy Chi was Vuong
Duy of the Nuong dynasty. Then came four distinguished calligraphers: Te,
Hoang, Me, Sai of the Tong dynasty.
Later, Chinese novelist Kim Dung
with his rich imagination brought sword art and martial arts into calligraphy,
fabricating many dramatic stories in Knight Activities or Do Long Lady:
Giang-Hu Top Leader, precious sword
Do Long
Commanding people…
Apart from fabricated fabulous
anecdotes, the real thing in the above stories was the art of calligraphy,
which has achieved its peak glory in China.
In Viet Nam, Cao Ba Quat was a
top calligrapher of great fame in the old times. Nowadays,
there is an anecdote about poet Hoang Trung Thong’s calligraphy. A long
time ago, poet Hoang Cam opened an inn to sell Long Van glutinous rice liquor
in Ha Noi, Hoang Trung Thong. He was very
fond of drinking, once visited the inn and became heavily drunk. During his
dead intoxication, he stood up and wrote on the inn’s wall a beautiful Chinese
word, meaning liquor. It is a regret that besides that Liquor word, he had no
other calligraphy works.
The national language we are using
though is just a young writing in Latin characters, but more and more writers
have heightened it to the level of calligraphy. Famous musician Trinh Cong Son
handwriting used in writing his songs’ words is a form of calligraphy having
been imitated by many youths in their handwriting, which is fairly similar to
the original.
It is said
that calligraphy is an art higher than painting a “head”. That is still yet to
be confirmed. However, actually these days while paintings are very popular in
the markets, calligraphy works are rarely found. Both calligraphers and
calligraphy works connoisseurs are quite scarce . ( AN OLD
–TIMES SCHOLAR).
No comments:
Post a Comment